429000₫
Quay thử XSMN Thứ 6 Những chiếc Skyknight tiếp tục phục vụ đến giữa những năm 1960 trong màu sơn trắng, trong khi những chiếc cùng thời với nó đã được cho nghỉ hưu từ lâu. Vào năm 1962, Khi Hải quân và Không quân Hoa Kỳ thống nhất với nhau về cách đặt tên máy bay, chiếc F3D-1 được đặt tên lại là '''F-10A''' trong khi chiếc F3D-2 được gọi là '''F-10B'''. Kiểu EF-10B đã phục vụ trong vai trò phản công điện tử trong Chiến tranh Việt Nam cho đến năm 1969. Thủy quân Lục chiến Mỹ đã cho nghỉ hưu những chiếc EF-10B cuối cùng vào năm 1970. Một số chiếc tiếp tục bay như là nền tảng thử nghiệm cho hãng Raytheon đến tận những năm 1980.
Quay thử XSMN Thứ 6 Những chiếc Skyknight tiếp tục phục vụ đến giữa những năm 1960 trong màu sơn trắng, trong khi những chiếc cùng thời với nó đã được cho nghỉ hưu từ lâu. Vào năm 1962, Khi Hải quân và Không quân Hoa Kỳ thống nhất với nhau về cách đặt tên máy bay, chiếc F3D-1 được đặt tên lại là '''F-10A''' trong khi chiếc F3D-2 được gọi là '''F-10B'''. Kiểu EF-10B đã phục vụ trong vai trò phản công điện tử trong Chiến tranh Việt Nam cho đến năm 1969. Thủy quân Lục chiến Mỹ đã cho nghỉ hưu những chiếc EF-10B cuối cùng vào năm 1970. Một số chiếc tiếp tục bay như là nền tảng thử nghiệm cho hãng Raytheon đến tận những năm 1980.
Chiếc '''Douglas F3D Skyknight''', (sau đổi tên thành '''F-10 Skyknight''') là một kiểu máy bay tiêm kích phản lực hai động cơ cánh gắn giữa do Douglas Aircraft Company sản xuất tại El Segundo, California, và là một máy bay tiêm kích hoạt động trên tàu sân bay trong mọi điều kiện thời tiết. Nó đã phục vụ trong Hải quân và Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ, bắn rơi được nhiều chiếc MiG-15 tại Triều Tiên, và phục vụ như một nền tảng cho tác chiến điện tử tại Việt Nam. Chiếc máy bay này đôi khi được gọi không chính thức là Skynight (bỏ bớt ký tự k).