đá gà trực tiếp 12 3
xsmn 10 5 2024
xsmb thu4hangtuan
dự đoán xsmb đặc biệt hôm nay

bj88 cc cc

741000₫

bj88 cc cc Hải quân Nhật Bản cũng có một số lượng lớn tàu ngầm và được trang bị ngư lôi tốt nhất thời đó, Ngư lôi Oxy loại 93, nhưng chúng lại không tạo được ảnh hưởng đáng kể đến diễn biến cuộc chiến. Năm 1942, các tàu ngầm Nhật đã hoạt động rất tốt khi đánh chìm hoặc làm bị thương nhiều tàu chiến Đồng Minh. Tuy nhiên, Hải quân Đế quốc Nhật Bản lại áp dụng một học thuyết như của hải quân Mỹ trước chiến tranh là để nắm được quyển khống chế biển, phải dựa vào lực lượng hạm đội tàu nổi hùng mạnh chứ không bằng việc đánh phá các tuyến vận tải biển. Do đó, mặc dù người Mỹ có một tuyến vận tải không thường xuyên từ bờ biển phía tây đến mặt trận dễ bị tàu ngầm tấn công nhưng các tàu ngầm Nhật Bản lại chỉ sử dụng trong vai trò trinh sát tầm xa và thỉnh thoảng mới tấn công các tuyến vận tải Mỹ. Các hoạt động của tàu ngầm Nhật trong vùng biển nước Úc vào năm 1942 và 1943 cũng chỉ đạt được một số thành quả nhỏ. Khi chiến cuộc trở nên bất lợi đối với người Nhật, các tàu ngầm Nhật chuyển sang vai trò cung cấp tiếp liệu cho các căn cứ đã bị phong tỏa như Truk và Rabaul. Ngoài ra, mặc dù là đồng minh với Đức, Nhật Bản lại tôn trọng hiệp ước với Liên Xô mà bỏ qua hàng triệu tấn hàng tiếp liệu chiến tranh của Mỹ cho Liên Xô từ San Francisco đến Vladivostok. Trong toàn cuộc chiến, tàu ngầm Nhật đánh chìm được 184 tàu buôn với tổng cộng khoảng 1 triệu tấn tải trọng, cộng thêm khoảng vài chục tàu chiến đối phương (bao gồm 2 tàu sân bay cỡ lớn), thành tích này bị coi là không tương xứng khi so với số lượng tàu ngầm Nhật tham chiến (trong đó 130 tàu ngầm Nhật đã bị mất).

Số lượng
Thêm vào danh sách mong muốn
Mô tả sản phẩm

bj88 cc cc Hải quân Nhật Bản cũng có một số lượng lớn tàu ngầm và được trang bị ngư lôi tốt nhất thời đó, Ngư lôi Oxy loại 93, nhưng chúng lại không tạo được ảnh hưởng đáng kể đến diễn biến cuộc chiến. Năm 1942, các tàu ngầm Nhật đã hoạt động rất tốt khi đánh chìm hoặc làm bị thương nhiều tàu chiến Đồng Minh. Tuy nhiên, Hải quân Đế quốc Nhật Bản lại áp dụng một học thuyết như của hải quân Mỹ trước chiến tranh là để nắm được quyển khống chế biển, phải dựa vào lực lượng hạm đội tàu nổi hùng mạnh chứ không bằng việc đánh phá các tuyến vận tải biển. Do đó, mặc dù người Mỹ có một tuyến vận tải không thường xuyên từ bờ biển phía tây đến mặt trận dễ bị tàu ngầm tấn công nhưng các tàu ngầm Nhật Bản lại chỉ sử dụng trong vai trò trinh sát tầm xa và thỉnh thoảng mới tấn công các tuyến vận tải Mỹ. Các hoạt động của tàu ngầm Nhật trong vùng biển nước Úc vào năm 1942 và 1943 cũng chỉ đạt được một số thành quả nhỏ. Khi chiến cuộc trở nên bất lợi đối với người Nhật, các tàu ngầm Nhật chuyển sang vai trò cung cấp tiếp liệu cho các căn cứ đã bị phong tỏa như Truk và Rabaul. Ngoài ra, mặc dù là đồng minh với Đức, Nhật Bản lại tôn trọng hiệp ước với Liên Xô mà bỏ qua hàng triệu tấn hàng tiếp liệu chiến tranh của Mỹ cho Liên Xô từ San Francisco đến Vladivostok. Trong toàn cuộc chiến, tàu ngầm Nhật đánh chìm được 184 tàu buôn với tổng cộng khoảng 1 triệu tấn tải trọng, cộng thêm khoảng vài chục tàu chiến đối phương (bao gồm 2 tàu sân bay cỡ lớn), thành tích này bị coi là không tương xứng khi so với số lượng tàu ngầm Nhật tham chiến (trong đó 130 tàu ngầm Nhật đã bị mất).

Trong những năm sau cuộc Chiến tranh Triều Tiên, chiếc F3D dần được thay thế bởi những kiểu máy bay phản lực mạnh hơn và có những hệ thống radar tốt hơn. Tuy vậy, sự nghiệp phục vụ của nó chưa kết thúc; thân rộng rãi và độ ổn định của nó làm cho nó dễ dàng chuyển đổi sang những vai trò khác. Chiếc F3D (dưới những phiên bản '''F3D-1M''' và '''F3D-2M''') được sử dụng trong việc phát triển một số hệ thống tên lửa không-đối-không trong những năm 1950, bao gồm các kiểu tên lửa Sparrow I, II, và III cùng tên lửa Meteor. Chiếc F3D-2M trở thành máy bay phản lực hoạt động đầu tiên của Hải quân Mỹ được trang bị tên lửa không-đối-không kiểu Sparrow I, một loại tên lửa dẫn hướng bằng chùm radar điều khiển bởi đội bay để kiểm soát đường bay của tên lửa. Chỉ có 38 chiếc gồm 12 chiếc F3D-1M và 16 chiếc F3D-2M được cải biến để mang kiểu tên lửa này. Vào cuối những năm 1950, một số chiếc F3D-2 của Thủy quân Lục chiến được cải biến thành máy bay chiến tranh điện tử và được đặt tên lại thành '''F3D-2Q''' (sau này là '''EF-10B'''). Tương tự, một số chiếc cũng được cải biến thành máy bay huấn luyện và được đặt tên lại là '''F3D-2T'''.

Sản phẩm liên quan