832000₫
tham khảo xsmn hôm nay Murakami tạo được một sự đột phá mạnh mẽ và sự thừa nhận tại Nhật vào năm 1987 với tác phẩm ''Rừng Na Uy'', một câu chuyện viết về thời quá khứ đầy mất mát của nhân vật chính Watanabe Toru vào thập niên 60. Tác phẩm đã bán được hàng triệu bản trong giới trẻ Nhật, khiến Murakami trở thành một dạng siêu sao tại Nhật Bản (trong sự bất ngờ của ông). Cuốn sách được in thành hai tập, bán chung với nhau, khiến cho số lượng sách bán ra tăng gấp đôi so với thực tế, trở thành cuốn sách bán chạy nhất (bestseller) với hàng triệu bản. Một cuốn có bìa xanh lá, còn cuốn kia màu đỏ. Vào năm 1986, Murakami rời Nhật Bản, đi du lịch qua các nước Châu Âu, và sau đó sống một thời gian ở Hoa Kỳ.
tham khảo xsmn hôm nay Murakami tạo được một sự đột phá mạnh mẽ và sự thừa nhận tại Nhật vào năm 1987 với tác phẩm ''Rừng Na Uy'', một câu chuyện viết về thời quá khứ đầy mất mát của nhân vật chính Watanabe Toru vào thập niên 60. Tác phẩm đã bán được hàng triệu bản trong giới trẻ Nhật, khiến Murakami trở thành một dạng siêu sao tại Nhật Bản (trong sự bất ngờ của ông). Cuốn sách được in thành hai tập, bán chung với nhau, khiến cho số lượng sách bán ra tăng gấp đôi so với thực tế, trở thành cuốn sách bán chạy nhất (bestseller) với hàng triệu bản. Một cuốn có bìa xanh lá, còn cuốn kia màu đỏ. Vào năm 1986, Murakami rời Nhật Bản, đi du lịch qua các nước Châu Âu, và sau đó sống một thời gian ở Hoa Kỳ.
Các nghiên cứu về hàu ở Darwin đã thuyết phục ông rằng sự thay đổi nảy sinh liên tục và không chỉ riêng để đáp ứng với những hoàn cảnh đã thay đổi. Năm 1854, ông hoàn thành phần cuối cùng của bài viết liên quan đến Beagle và bắt đầu làm việc toàn tâm về tiến hóa. Giờ đây ông đã nhận ra rằng mô hình phân nhánh tiến hóa đã có thể giải thích bằng cách chọn lọc tự nhiên làm việc không ngừng để cải thiện sự thích ứng. Tư tưởng của ông thay đổi từ quan điểm cho rằng các loài chỉ được hình thành trong các quần thể biệt lập, như trên các hòn đảo, sang nhấn mạnh vào sự phân bố mà không bị cô lập; đó là, ông đã chứng kiến sự gia tăng mức độ chuyên hóa trong các quần thể ổn định lớn khi liên tục khai thác các ổ sinh thái mới. Ông đã tiến hành nghiên cứu thực nghiệm tập trung vào những khó khăn với lý thuyết của mình. Ông đã nghiên cứu sự khác biệt về phát triển và giải phẫu giữa các giống vật nuôi khác nhau, tham gia tích cực trong việc tạo giống chim bồ câu ưa thích, và thử nghiệm (với sự trợ giúp của con trai Francis) về những phương thức mà hạt giống và động vật có thể phân tán ra biển để định cư các hòn đảo xa xôi. Vào năm 1856, lý thuyết của ông phức tạp hơn nhiều, với rất nhiều chứng cứ hỗ trợ .